Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 7)

06:00 | 29/06/2024

Theo dõi Kinh tế Xây Dựng trên
|
Công suất hiện tại của SPR là kết quả của những cuộc đấu tranh và thỏa hiệp quan liêu hơn là bất kỳ loại “thiết kế thông minh” nào, và những lời kêu gọi gần đây về việc điều chỉnh quy mô dự trữ hợp lý, chí ít là chỉ một phần, đã phản ánh kỳ vọng tối ưu hóa quy mô của SPR với các phương pháp định lượng mạnh mẽ trong điều kiện thị trường dầu mỏ đã thay đổi hoàn toàn ngày nay.

Thay đổi bản chất của rủi ro chính trị đối với nguồn cung

Trong khi các nhà sản xuất tuyên bố đã chôn giấu mỏ dầu và mối đe dọa sử dụng dầu làm vũ khí chính trị dường như đã giảm bớt thì nguy cơ gián đoạn lớn từ phía nhà sản xuất vẫn ở mức cao, thậm chí có thể cao hơn so với trước đây. Trong khi trước đây, rủi ro đối với nguồn cung dầu là chính phủ có chủ quyền của các nước sản xuất sẽ cố tình hạn chế xuất khẩu vì lợi nhuận chính trị thì ngày nay rủi ro lớn hơn là các chính phủ này mất quyền kiểm soát và đất nước của họ trở thành những quốc gia thất bại. Vài năm gần đây đã chứng kiến ​​nhiều đợt gián đoạn nguồn cung dầu do bất ổn chính trị và sự thất bại của nhà nước, ví dụ như Syria, Yemen, Libya và ở một mức độ nào đó là Iraq.

Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 7)

Ngày nay Venezuela đang phải chịu đựng sự sụt giảm sản xuất ngày càng nhanh và đang đứng trên bờ vực sụp đổ kinh tế, điều đó không thể loại trừ khả năng mất hoàn toàn nguồn cung của Venezuela. Hiện không có khoản dự trữ dầu chiến lược nào có thể cung cấp sự thay thế lâu dài cho sự mất mát sản xuất kéo dài từ một nước xuất khẩu lớn. Sự gián đoạn nguồn cung do chiến tranh hoặc nội chiến có xu hướng kéo dài khi mà sản lượng của Libya đã giảm xuống mức nhỏ giọt trong cuộc nội chiến năm 2011 và vẫn chưa phục hồi hoàn toàn về mức 1,6 triệu thùng dầu/ngày trước chiến tranh. Với triển vọng kinh tế và chính trị không chắc chắn của Ả rập Xê-út, khả năng mất nguồn cung kéo dài của nước này không thể bị loại trừ hoàn toàn trong tương lai. Kịch bản gián đoạn của Ả rập Xê-út sẽ đặc biệt đáng quan ngại vì nó sẽ lấy đi cả một lượng lớn nguồn cung hiện có và phần lớn công suất dự phòng sẵn có của OPEC.

Theo một cách nào đó, nguy cơ gián đoạn địa chính trị nghiêm trọng cho thấy lý do tại sao SPR quá lớn hoặc quá nhỏ ở dạng hiện tại. SPR không cần chứa từ 500 triệu–700 triệu thùng dầu để giảm thiểu sự gián đoạn cục bộ hoặc liên quan đến thời tiết cực đoan trong thời gian từ một đến hai tuần. Đồng thời, kho dự trữ từ 500 triệu–700 triệu thùng dầu, ngay cả khi hợp tác với các quốc gia thành viên IEA khác, có thể không đủ để thay thế việc mất đi một quốc gia sản xuất dầu lớn hoặc việc phong tỏa eo biển Hormuz trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Tuy vậy, trong khi nguồn cung nội địa của Hoa Kỳ không thể bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn cung do bất ổn chính trị ở một quốc gia xuất khẩu lớn, thì tồn kho SPR có thể cung cấp cứu trợ một phần trong một khoảng thời gian giới hạn để xoa dịu những đợt tăng giá cả nghiêm trọng và có hại về kinh tế khi thị trường điều chỉnh. SPR có thể đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cầu nối tạm thời giúp nền kinh tế Hoa Kỳ (và các nền kinh tế tiêu dùng khác) điều chỉnh để thích nghi với một thế giới mới với nguồn cung thấp hơn. Trong trường hợp xảy ra cú sốc lớn về nguồn cung, sẽ mất thời gian để cả cung và cầu điều chỉnh theo thực tế mới.

Kích cỡ, quy mô phù hợp của SPR

Thoạt nhìn bề ngoài thì SPR vừa quá lớn lại vừa quá nhỏ. Để so sánh với lượng dầu nhập khẩu ròng của Hoa Kỳ và trong bối cảnh sản xuất trong nước ngày càng tăng, quy mô hiện tại của SPR có thể được coi là quá mức so với các tiêu chuẩn thông thường. Ngay cả để giải quyết những gián đoạn ngắn hạn ở hầu hết các nước sản xuất hoặc do các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, SPR cũng không cần thiết phải lớn như hiện tại. Đó là bởi vì khả năng số lượng gián đoạn nguồn cung lớn kéo dài theo thời gian là khá thấp, đó là lý do tại sao nghiên cứu SPR của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ DOE cho thấy lợi nhuận giảm dần của SPR trên khoảng 600 triệu thùng dầu dự trữ. Tuy nhiên, so với các mối đe dọa mới mà Hoa Kỳ và các thị trường dầu mỏ toàn cầu phải đối mặt, SPR có thể được coi là không đủ. Trước tình trạng thiếu hụt nguồn cung lớn do bất ổn chính trị ở một quốc gia sản xuất lớn, SPR hiện tại sẽ chỉ đem tới một kho đệm an toàn mỏng manh. Ví dụ như trữ lượng hiện tại và khả năng bơm hút dầu sẽ không đủ để bù đắp cho việc ngừng xuất khẩu dầu của Ả rập Xê-út. Tuy nhiên, kết hợp với sự bơm hút dầu dự trữ từ Nhật Bản, Trung Quốc và các nước nắm giữ dầu dự trữ khác, SPR vẫn có thể phải mất một chặng đường dài để giảm thiểu phạm vi gián đoạn kinh tế do một sự kiện quy mô lớn như vậy gây ra.

Việc xác định quy mô, kích thước phù hợp của SPR là một bài toán rất khó. Trong khi việc đánh giá chi phí của SPR tương đối đơn giản thì việc đo lường lợi nhuận của nó lại khó khăn hơn. Giá trị răn đe của SPR cũng rất khó đánh giá vì không thể biết được điều kiện phản thực tế (counterfactual). Quy mô tối ưu của SPR cho cả mục đích răn đe và phòng ngừa vẫn chưa rõ ràng như được giải thích chi tiết hơn dưới đây, lượng dầu tồn kho được giải phóng khỏi SPR trước đây cho thấy lợi nhuận rõ ràng của việc giải phóng dầu chiến lược tồn kho trong một số trường hợp, như trong hành động phối hợp của IEA (9/2005) khi nguồn dự trữ dầu chiến lược từ bên ngoài Hoa Kỳ được khai thác để bù đắp cho sự gián đoạn do bão ở Bờ Vịnh (Hoa Kỳ), và những lợi nhuận ít có thể định lượng được trong các trường hợp khác (như trong hành động tập thể của IEA, 6/2011). Ở một mức độ nào đó, vấn đề đánh giá mức giá cả phù hợp để chi trả cho SPR có thể được so sánh với vấn đề định giá một hợp đồng bảo hiểm. Trên thực tế, SPR là một chính sách bảo hiểm chống lại cái gọi là rủi ro chết người đối với các sự kiện có xác suất thấp, tác động cao ảnh hưởng đến nguồn cung dầu toàn cầu. Việc tính toán mức đền bù rủi ro phù hợp phụ thuộc vào cả xác suất được ấn định cho một sự gián đoạn tiềm ẩn và chi phí ước tính cho các hậu quả của nó. Trong trường hợp của SPR, vấn đề còn phức tạp hơn bởi thực tế là chính sách này không yêu cầu phân bổ vốn tài chính thuần túy mà còn yêu cầu duy trì lượng dự trữ vật chất. Do đó, phân tích chi phí-lợi nhuận phải tính đến không chỉ việc đánh giá các yếu tố tài chính liên quan mà còn phải đánh giá tác động thị trường của việc giải phóng số lượng hàng tồn kho khác nhau trong các kịch bản khác nhau.

Tuy nhiên, điều không có gì ngạc nhiên khi không có phương pháp khoa học nào được chấp nhận rộng rãi để xác định kích thước SPR phù hợp. Quy mô hiện tại của SPR là kết quả của sự thỏa hiệp chính trị hơn bất kỳ điều gì khác. SPR được hình thành vào những năm 1970 trong thời đại cấm vận dầu mỏ và các tập đoàn quyền lực cũng như kiểm soát giá cả, cấm xuất khẩu và sự phụ thuộc ngày càng tăng vào dầu thô nhập khẩu ở Hoa Kỳ. Công suất hiện tại của SPR là kết quả của những cuộc đấu tranh và thỏa hiệp quan liêu hơn là bất kỳ loại “thiết kế thông minh” nào, và những lời kêu gọi gần đây về việc điều chỉnh quy mô dự trữ hợp lý, chí ít là chỉ một phần, đã phản ánh kỳ vọng tối ưu hóa quy mô của SPR với các phương pháp định lượng mạnh mẽ trong điều kiện thị trường dầu mỏ đã thay đổi hoàn toàn ngày nay. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực ngay từ đầu để áp dụng phân tích chi phí-lợi nhuận chính thức cho SPR, việc định lượng lợi nhuận công ròng thực tế của lượng dầu tồn gặp nhiều thách thức và không chắc chắn.

Link nguồn:

https://www.energypolicy.columbia.edu/wp-content/uploads/2018/05/CGEP_Rethinking_the_Strategic_Petroleum_Reserve_June2018.pdf

Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 6)Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 6)
Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 5)Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 5)
Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 2)Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 2)
Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 3)Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 3)
Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 1)Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 1)
Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 4)Sự cân nhắc việc tối ưu hóa quy mô kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ (Kỳ 4)

Tuấn Hùng

Energy Policy

vietinbank
thaco