Chuyên gia nêu giải pháp phát triển bền vững điện gió
Xu hướng phát triển ngành điện gió
Theo Tiến sĩ Dư Văn Toán, báo cáo của Tổ chức Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) năm 2019, ngành năng lượng tái tạo toàn cầu đã có những bước tiến lớn kể từ Thỏa thuận Paris năm 2015, với mục tiêu giảm khí thải nhà kính để hạn chế sự tăng nhiệt độ Trái Đất không quá 1,5 độ C vào năm 2100. Cụ thể, năm 2005, tổng công suất điện gió và điện mặt trời chỉ đạt 50 GW và 15 GW, nhưng đến cuối năm 2018, con số này đã đạt kỷ lục 590 GW đối với điện gió và 400 GW đối với điện mặt trời. Dự báo của IRENA cho thấy tốc độ lắp đặt điện tái tạo hàng năm hiện nay đối với điện gió và điện mặt trời lần lượt là 109 GW và 54 GW, và dự báo đến năm 2030 sẽ đạt 300 GW cho điện gió và 200 GW cho điện mặt trời mỗi năm. Đến năm 2050, con số này có thể đạt 360 GW và 240 GW. Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng công suất điện toàn cầu hiện tại chiếm khoảng 25%, dự kiến sẽ đạt 57% vào năm 2030 và 86% vào năm 2050.
Tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2023, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt khoảng 80.555 MW, tăng ~2.800 MW so với năm 2022. (Tuy nhiên, tỷ lệ công suất đặt do EVN và các GENCOs thuộc EVN sở hữu chỉ 29.966 MW - chiếm tỷ trọng 37,2% công suất toàn hệ thống). Trong đó, tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) là 21.664 MW, chiếm tỷ trọng 26,9%; thủy điện (bao gồm thủy điện nhỏ) là 22.872 MW, chiếm tỷ trọng 28,4%; nhiệt điện than là 26.757 MW, chiếm tỷ trọng 33,2%; nhiệt điện khí 7.160 MW, chiếm tỷ trọng 8,9%.
Như vậy, tỷ lệ năng lượng tái tạo (bao gồm điện gió, điện mặt trời, thủy điện) chiếm tỷ trọng 55,3% tổng công suất đặt của hệ thống. Quy mô hệ thống điện Việt Nam hiện đứng đầu khu vực ASEAN.
![]() |
TS. Dư Văn Toán - Viện Khoa học Môi trường, Biển và Hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). |
Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã đặt ra mục tiêu phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo. Theo Quyết định 39/2018/QĐ-TTg, giá điện gió trong đất liền được quy định là 1.927 đồng/kWh (tương đương 8,5 US cents/kWh), trong khi điện gió ngoài khơi là 2.223 đồng/kWh (tương đương 9,8 US cents/kWh). Các mức giá này áp dụng cho các nhà máy điện gió có ngày vận hành thương mại trước 1/11/2021 và sẽ duy trì trong 20 năm kể từ ngày vận hành.
Tính đến cuối năm 2020, tổng công suất các nhà máy điện gió đạt 630 MW, và đến đến cuối năm 2022, tổng công suất lắp đặt điện gió ở Việt Nam đã đạt hơn 11.000 MW. Điều này đã vượt qua mục tiêu phát triển trong Quy hoạch điện 7 điều chỉnh (Quy hoạch điện 8 vẫn đang được hoàn thiện). Tuy nhiên, so với tiềm năng thực tế, con số này vẫn còn khá khiêm tốn. Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi lên tới hàng trăm GW, đặc biệt là ở khu vực miền Trung và miền Nam.
Hiện nay, theo Tiến sĩ Dư Văn Toán, Quy hoạch điện 8 đang được hoàn thiện, dự kiến sẽ đưa ra mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, mạnh mẽ hơn trong giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến 2045. Chính phủ tiếp tục áp dụng chính sách giá điện gió ưu đãi, nhưng đã có sự điều chỉnh về cơ chế giá đối với các dự án sau 2021. Các dự án mới được khuyến khích bằng cơ chế đấu thầu để xác định giá phù hợp, nhằm tránh tình trạng giá điện gió quá cao so với giá thị trường.
Các dự án điện gió ngoài khơi đã bắt đầu được chú trọng, đặc biệt là trong bối cảnh các quốc gia khu vực ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng đang phát triển mạnh các dự án điện gió biển. Việt Nam có tiềm năng lớn trong lĩnh vực này, với các dự án đầu tiên đã được triển khai, như dự án Điện gió ngoài khơi Bạc Liêu.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, Việt Nam có thể phát triển đến 30 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030, và lên đến 70 GW vào năm 2050.
Nguy cơ tác động môi trường của các công trình điện gió
Dù điện gió là một nguồn năng lượng tái tạo, xanh và sạch, Tiến sĩ Dư Văn Toán vẫn nhận định rằng công nghệ này không phải không có tác động đến môi trường, nhất là trong quá trình phát triển và vận hành các dự án. Tuy nhiên, so với các nguồn năng lượng truyền thống, những tác động này nhìn chung được đánh giá là ít nghiêm trọng hơn.
![]() |
Việt Nam có thể phát triển đến 30 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030. |
Về tác động đến môi trường đất, các nhà máy điện gió cần một diện tích lớn, đặc biệt là ở khu vực biển. Mặc dù vậy, phần diện tích xung quanh các tuabin vẫn có thể sử dụng cho các mục đích khác. Các móng của tuabin thường có đường kính từ 10 đến 20 mét và được lắp đặt sâu dưới mặt đất hoặc đáy biển, khoảng 40 đến 80 mét. Điều này khiến diện tích đất có thể bị chiếm dụng nhưng không hoàn toàn không thể sử dụng cho các hoạt động khác.
Với môi trường nước, một ưu điểm đáng kể của điện gió là không cần sử dụng nước làm mát và không gây ô nhiễm nguồn nước. Tuy nhiên, ưu điểm này không quá nổi bật khi so với các nhà máy nhiệt điện, như nhà máy nhiệt điện Duyên Hải tại Việt Nam, nơi nước biển được sử dụng để làm mát. Do đó, mặc dù điện gió ít gây ô nhiễm nước, nhưng nếu so với một số công nghệ năng lượng khác, tác động của nó có thể không quá khác biệt.
Điều đặc biệt tích cực của điện gió là ảnh hưởng của nó đối với môi trường không khí. Theo đánh giá của Tổ chức Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC), mỗi megawatt điện gió có thể giảm 1.800 tấn CO2, 9 tấn SOx và 4 tấn NOx mỗi năm. Nếu các chương trình điện gió toàn cầu phát triển mạnh mẽ, đến năm 2050, chúng có thể giảm đến 1,5 tỷ tấn CO2. Dù lượng CO2 này chỉ chiếm khoảng 0,07% tổng khối lượng khí quyển, nhưng tác động tích cực này vẫn đáng kể trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay.
Về tác động tới cảnh quan, các cánh đồng điện gió thường được xây dựng ở những khu vực xa khu dân cư, ven bờ biển hoặc ngoài khơi. Tuy nhiên, các công trình này vẫn ảnh hưởng đến cảnh quan và địa hình. Do đó, các quy định yêu cầu phải giữ khoảng cách phù hợp giữa các tuabin và các khu vực bảo tồn thiên nhiên, khu di tích, rừng phòng hộ hoặc khu dân cư. Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống lưới điện cũng cần được tính toán kỹ lưỡng để hạn chế tác động đến cảnh quan khu vực. Để giảm thiểu hiệu ứng phản chiếu ánh sáng (hay còn gọi là "disco effect") từ các tuabin dưới ánh sáng mặt trời, người ta đã chọn cách sơn hoặc tráng lớp nhựa mờ cho các tuabin gió, giúp làm giảm hiện tượng nhấp nháy khó chịu. Tuy nhiên, bóng của các cánh quạt khi quay có thể gây rối mắt, mặc dù tác động này chỉ xảy ra trong phạm vi nhỏ dưới chân các tuabin.
Cuối cùng, điện gió ngoài khơi có thể ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển, đặc biệt là độ ồn và rung từ quá trình lắp đặt chân đế và các trụ điện dưới đáy biển. Những yếu tố này có thể làm xáo trộn sinh hoạt của các sinh vật biển, đặc biệt là các loài như cá voi và cá heo. Việc kéo dây cáp điện dưới biển để dẫn điện về đất liền cũng có thể tác động đến môi trường sống của các loài sinh vật dưới đáy biển, đặc biệt ở các vùng biển cần bảo vệ. Hơn nữa, các trang trại điện gió ngoài khơi có thể trở thành chướng ngại vật đối với tàu thuyền và ảnh hưởng đến việc đánh bắt hải sản, nếu chúng được đặt gần các tuyến hàng hải hoặc ngư trường.
“Dù điện gió là một nguồn năng lượng sạch, nhưng những tác động đến môi trường và xã hội vẫn cần được xem xét và quản lý chặt chẽ để đảm bảo sự phát triển bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với hệ sinh thái và cộng đồng”, Tiến sĩ Dư Văn Toán nhấn mạnh.
Để giảm thiểu tác động môi trường của các công trình điện gió, Tiến sĩ Dư Văn Toán cũng đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường tự nhiên và xã hội.
Hiện nay, theo Nghị định số 18/2015/NĐ-CP của Chính phủ, việc thực hiện báo cáo ĐTM (Đánh giá tác động môi trường) chỉ yêu cầu đối với các dự án điện gió có diện tích từ 100 ha trở lên, có tác động đến các khu vực bảo tồn, sử dụng đất rừng hoặc đất trồng lúa, hoặc yêu cầu lắp đặt đường dây nối lưới điện từ 110 kV trở lên. Đối với các dự án không thuộc nhóm này, chủ đầu tư chỉ cần lập Kế hoạch bảo vệ môi trường (BVMT).
Các quy định về môi trường và xã hội trong ĐTM được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT, trong đó nêu rõ các yêu cầu về quy hoạch, đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và kế hoạch BVMT. Thông tư này cũng quy định quy trình thẩm định, giám sát và đánh giá tác động trong suốt quá trình vận hành của dự án. Các quy định này được áp dụng cho tất cả các dự án phát triển ở Việt Nam, bao gồm cả các dự án điện gió.
Để phát triển bền vững môi trường trong các dự án điện gió, Tiến sĩ Dư Văn Toán đề xuất cần rà soát và bổ sung các yêu cầu đánh giá tác động môi trường đối với tất cả các dự án phát triển điện gió, bao gồm các dự án trên đất liền và ngoài biển. Các yêu cầu này phải tuân thủ các luật hiện hành về bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, tài nguyên nước, thủy sản, đa dạng sinh học, và các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Đồng thời, cần nghiên cứu và bổ sung các quy định đánh giá tác động môi trường và xã hội theo các tiêu chuẩn quốc tế, nhằm đảm bảo rằng các dự án điện gió không gây tổn thương nghiêm trọng đến các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu bảo tồn biển, khu dự trữ sinh quyển và các khu di sản thiên nhiên.
Ngoài ra, cần phải đánh giá đầy đủ mức độ tổn thương môi trường và ước tính thiệt hại mà các dự án điện gió có thể gây ra. Việc này sẽ giúp xác định các biện pháp cần thiết để giảm thiểu tác động tiêu cực. Một giải pháp quan trọng khác là xem xét bổ sung các loại thuế, phí mới cho các dự án điện gió, nhằm đóng góp vào các quỹ bảo vệ môi trường, quỹ phục hồi sinh thái, quỹ khí hậu và quỹ năng lượng xanh. Những quỹ này sẽ hỗ trợ việc phát triển bền vững môi trường xung quanh khu vực điện gió, đồng thời góp phần bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái tự nhiên.
Đình Khương
- Tiềm năng điện gió Việt Nam: Phân bố rõ rệt theo vùng, mở rộng từ đất liền ra biển khơi
- ADB đầu tư mạnh mẽ vào các dự án năng lượng và phát triển bền vững
- BB Power Holdings bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán
- Hợp tác Năng lượng Xanh Việt - Trung - ASEAN hướng tới Net Zero 2050
- Sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Tạo hành lang pháp lý cho chuyển đổi xanh
- PV Power hướng đến mục tiêu tăng trưởng sản lượng phát điện 17% năm 2025
- Hà Nội đẩy mạnh lộ trình chuyển đổi xe buýt sang năng lượng xanh
- Đảm bảo an ninh năng lượng - chìa khoá để tăng trưởng bền vững
- Tập đoàn Super Energy cung ứng khoảng 1,2 triệu kWh/năm cho lưới điện quốc gia
- LNG Quảng Trạch II sẽ cung cấp khoảng 9 tỷ kWh điện mỗi năm