Thông tin cơ bản về Nhật Bản và quan hệ Việt Nam - Nhật Bản

08:52 | 24/11/2023

Theo dõi Kinh tế Xây Dựng trên
|
Nhật Bản hiện là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa, giáo dục, lao động, du lịch.

Thông tin cơ bản về Nhật Bản và quan hệ Việt Nam - Nhật Bản

https://kinhtexaydung.petrotimes.vn

I. Khái quát

1. Tên nước: Nhật Bản (Japan).

2. Quốc khánh: là ngày sinh nhật Nhà vua (23/02).

3. Thủ đô: Tokyo

4. Đặc điểm địa lý: Quần đảo (gồm 6.852 hòn đảo, trong đó có 4 hòn đảo lớn: Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu) nằm ở Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương, ngoài khơi phía Đông lục địa châu Á. Diện tích 377.944 km2, chủ yếu là đồi núi và rừng rậm (khoảng 73%). Khí hậu ôn đới và cận nhiệt đới, có 4 mùa rõ rệt. Múi giờ: đi trước Việt Nam 02 tiếng đồng hồ.

6. Dân số: 124,50 triệu người (01/5/2023).

7. Dân tộc: 98,5% dân số là thuần Nhật, phần còn lại là dân tộc thiểu số Ainu ở phía Bắc và người nước ngoài.

8. Hành chính: gồm 47 tỉnh thành. Đồng thời, căn cứ vào địa lý, lịch sử và đặc trưng kinh tế… Nhật Bản thường được chia làm 8 khu vực lớn gồm Hokkaido, vùng Đông Bắc, vùng Kanto, vùng Trung Bộ, vùng Kinki (còn gọi là Kansai), vùng Chugoku, vùng Shikoku và vùng Kyushu-Okinawa.

9. Tôn giáo: Thần đạo (Shinto) thờ các vị Thần là tôn giáo chính, lâu đời nhất ở Nhật Bản; Phật giáo được du nhập vào Nhật Bản từ thế kỷ thứ 6, trở nên phổ biến; Thiên Chúa giáo, du nhập vào Nhật Bản từ thế kỷ 16. Ngoài ra, có nhiều tôn giáo mới ra đời trong thời gian gần đây có số lượng hội viên khá đông như Soka Gakkai (Sáng Giá Học Hội), Tenrikyo (Thiên Lý Giáo), Shinrikyo (Chân Lý Giáo)… Người Nhật Bản có thể theo nhiều tôn giáo khác nhau cùng lúc.

10. Ngôn ngữ: tiếng Nhật Bản, chịu ảnh hưởng của chữ Hán, hiện vẫn sử dụng Hán tự kết hợp với chữ viết riêng của Nhật Bản.

11. Tiền tệ: Yên

12. GDP: khoảng 5000 tỷ USD (năm 2022); GDP bình quân đầu người: khoảng 40.000 USD.

13. Chế độ chính trị:

- Nhà vua Nhật Bản Naruhito là Nguyên thủ tượng trưng về đoàn kết dân tộc và đối ngoại; lên ngôi ngày 01/5/2019; niên hiệu là Lệnh Hòa. Nhà vua Akihito thoái vị ngày 30/4/2019 (sau 30 năm tại vị), trở thành Thượng Hoàng Nhật Bản.

- Nhà nước được tổ chức theo chế độ tam quyền phân lập.

- Chính phủ hiện nay là chính phủ liên minh giữa Đảng Dân chủ Tự do (LDP) và Đảng Công Minh (Komeito).

14. Lãnh đạo chủ chốt hiện nay:

- Thủ tướng Kishida Fumio (Ki-si-đa Phư-mi-ô) (Đảng LDP), từ ngày 4/10/2021 (Thủ tướng thứ 100 của Nhật Bản).

- Chủ tịch Hạ viện Nukaga Fukushiro (Nư-ca-ga Phư-cư-si-rô) (Đảng LDP), từ ngày 20/10/2023.

- Chủ tịch Thượng viện Otsuji Hidehisa (Ô-chư-gi Hi-đê-hi-sa) (Đảng LDP) từ tháng 8/2022.

- Ngoại trưởng Kamikawa Yoko (Ca-mi-ka-goa I-ô-cô) (Đảng LDP), từ ngày 13/9/2023.

15. Thành viên các tổ chức G7, G20

II. Một số nét đặc trưng về văn hóa, tập quán của Nhật Bản và các lưu ý trong tiếp xúc

- Chế độ chính trị của Nhật Bản là quân chủ lập hiến, Nhà nước được tổ chức theo chế độ tam quyền phân lập. Theo hiến pháp Nhật Bản, Hoàng gia mang tính biểu tượng, không tham gia điều hành đất nước và các hoạt động chính trị, không có các phát ngôn có tính chính trị, nên trong tiếp xúc với thành viên Hoàng gia cần tránh nêu các nội dung về chính trị, kinh tế, tập trung các nội dung lịch sử, văn hóa, xã hội.

- Nhật Bản là đất nước có truyền thống văn hoá lâu đời và rất đặc sắc như nghệ thuật cắm hoa (ikebana), trà đạo (sado), thư pháp (shodo), đấu vật (sumo)... Người dân Nhật Bản giàu lòng mến khách nhưng không quá vồ vập, mà vẫn giữ đúng nghi lễ; coi trọng lễ nghĩa, những cử chỉ lịch sự. Trong giao tiếp, người Nhật Bản rất tinh tế, thường truyền đạt suy nghĩ, ý kiến của mình một cách khéo léo, không nói thẳng những vấn đề nhạy cảm, dễ làm tổn thương người khác.

- Nhật Bản có nhiều tôn giáo như thần đạo, phật giáo, thiên chúa giáo..., nhưng thần đạo và phật giáo là hai tôn giáo phổ biến nhất, nên người Nhật Bản cũng coi trọng tâm linh, nhưng không mê tín dị đoan.

- Trong sinh hoạt tại Nhật Bản, cần lưu ý văn hóa xếp hàng, không đi dày, dép trong nhà, giữ vệ sinh nơi công cộng, không nói, cười to nơi đông người, đưa và nhận đồ bằng hai tay…

III. Chính sách kinh tế

Là quốc gia nghèo tài nguyên, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản trải qua các giai đoạn: nhanh chóng phục hồi (1945-1954), phát triển cao độ (1955-1973), tăng trưởng chậm lại (1974-1990) và trì trệ (từ 1991 đến nay). Hiện tại Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thứ 3 thế giới.

Về chính sách kinh tế, Chính quyền Thủ tướng Kishida hiện nay ưu tiên hàng đầu: khôi phục và phát triển kinh tế, thúc đẩy cải cách từ “mô hình kinh tế cắt giảm chi phí” sang “mô hình kinh tế tăng trưởng theo nâng lương bền vững và đầu tư năng động”, trong đó tập trung vào hai “bánh xe tăng trưởng”: (i) tăng cường năng lực cung ứng; (ii) ứng phó với vấn đề vật giá leo thang.

Năm 2020, kinh tế Nhật Bản lần đầu sau bốn năm rưỡi rơi vào suy thoái (GDP giảm 4,5%, giảm cao nhất kể từ năm 1995). Năm 2021, Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng 1,7% dù có tới 02 Quý tăng trưởng âm. Từ đầu năm 2022, đà tăng trưởng chậm lại do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 mới, xung đột Nga - Ukraine, vật giá gia tăng; đồng yên giảm mức thấp nhất trong hơn 2 thập kỷ. Từ đầu năm 2023, tình hình dịch bệnh dần được kiểm soát, kinh tế có tiến triển phục hồi tuy chưa chắc chắn. GDP năm 2023 dự báo tăng 1,3~1,9%.

IV. Chính sách quốc phòng - an ninh

Nhật Bản chủ trương tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhật Bản đã tạo bước chuyển lịch sử kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 với việc công bố 03 văn kiện sửa đổi quan trọng về quốc phòng là “Chiến lược an ninh quốc gia”, “Chiến lược phòng vệ quốc gia” và “Kế hoạch trang bị phòng vệ”, trong đó lần đầu tiên nêu rõ Nhật Bản cần sở hữu năng lực phản công (thực chất là năng lực tấn công căn cứ địch); tăng ngân sách quốc phòng từ mức khoảng 1% lên mức 2% GDP (320 tỷ USD giai đoạn 2023-2027; ngân sách năm 2027 ước tính 8.900 tỷ yên - gấp 1,5 lần năm 2022), đưa Nhật Bản trở thành nước có ngân sách quốc phòng lớn thứ ba thế giới.

V. Chính sách đối ngoại

Thủ tướng Kishida Fumio tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại của các Thủ tướng tiền nhiệm Abe Shinzo và Suga Yoshihide; tiếp tục coi quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ là trục cơ bản; thúc đẩy 3 trụ cột về ngoại giao, an ninh quốc phòng gồm: (i) kiên quyết bảo vệ những giá trị phổ quát như tự do, chủ nghĩa dân chủ, nhân quyền, thượng tôn pháp luật, phối hợp với các nước đồng minh, đồng chí hướng thúc đẩy Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP); (ii) bảo đảm hòa bình và ổn định của Nhật Bản, tăng cường năng lực phòng vệ, phòng thủ tên lửa, bảo đảm an ninh trên biển để bảo vệ vững chắc lãnh thổ, lãnh hải, không phận, cũng như tính mạng và tài sản người dân; (iii) giải quyết những vấn đề toàn cầu, dẫn dắt cộng đồng quốc tế, đóng góp cho nhân loại; nỗ lực vì thế giới không có vũ khí hạt nhân, thúc đẩy các biện pháp ứng phó với trái đất nóng lên, xây dựng những luật lệ mới như lưu thông dữ liệu tự do.

Ngày 23/10/2023, trong diễn văn chính sách tại Quốc hội, Thủ tướng Kishida khẳng định sẽ tiếp tục làm sâu sắc quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ; với Trung Quốc, thúc đẩy đối thoại cấp cao hướng tới “quan hệ mang tính xây dựng và ổn định”; tiếp tục thể hiện lập trường trong các vấn đề cần lên tiếng, yêu cầu Trung Quốc hành động có trách nhiệm, cùng hợp tác trong các vấn đề chung; với Hàn Quốc, phối hợp sâu rộng hơn nữa trên cơ sở mối quan hệ tin cậy cá nhân với Tổng thống Hàn Quốc; thúc đẩy phối hợp chiến lược 3 bên Nhật - Mỹ - Hàn trên các lĩnh vực, bao gồm cả an ninh kinh tế; thúc đẩy khung hợp tác Nhật - Trung - Hàn; với Nga, quan hệ đang trong tình trạng khó khăn sau khi Nga xâm lược Ukraine, khẳng định duy trì phương châm giải quyết vấn đề lãnh thổ hướng tới ký kết Hiệp định Hòa bình; với Triều Tiên, nhấn mạnh giải quyết vấn đề người Nhật bị bắt cóc là ưu tiên quan trọng hàng đầu của chính quyền, khẳng định thúc đẩy hội đàm cấp cao với Chủ tịch Kim Châng Ưn nhằm giải quyết các vấn đề với Triều Tiên, sẵn sàng có các quyết định vì đại cục nhằm đưa quan hệ Nhật Bản - Triều Tiên lên tầng nấc mới, đóng góp lớn vào hòa bình, ổn định của khu vực, phù hợp với lợi ích của hai nước; với các nước Nam Bán cầu (Global South), tăng cường lắng nghe, chia sẻ ý kiến, thúc đẩy hợp tác “tinh tế kiểu Nhật Bản”; với các nước khu vực ASEAN: cùng dẫn dắt khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương phát huy vai trò là trung tâm tăng trưởng của kinh tế thế giới.

IV. Quan hệ với Việt Nam

1. Giao lưu lịch sử

- Thế kỷ 8: Nhà sư Phật Triết của Lâm Ấp (nay là miền Trung Việt Nam) đã tới Nara, kinh đô Nhật Bản, giao lưu phật giáo, âm nhạc tại chùa Đại An. Qua đó, Nhà sư Phật Triết đã giới thiệu âm nhạc Lâm Ấp, đến nay vẫn được biểu diễn trong những nhạc khúc của nhã nhạc Nhật Bản, với sự đồng điều về thanh âm với nhã nhạc cung đình Huế.

- Thế kỷ 17: Nhiều thương thuyền (Châu Ấn Thuyền) của Nhật Bản đã cập cảng Hội An và tại đây, người Nhật Bản đã tổ chức giao lưu, buôn bán và lập ra khu phố của người Nhật Bản. Trong số đó, có thương nhân Araki Sotaro, người kết hôn và đưa công chúa Ngọc Hoa (con gái của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên) về sống tại Nagasaki, Nhật Bản.

- Đầu thế kỷ 20: Tháng 01/1905, nhà cách mạng Phan Bội Châu tổ chức phong trào Đông Du, đưa khoảng 200 thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập, nhận được sự hỗ trợ của một số nhân vật của Nhật Bản, đặc biệt là sự giúp đỡ quý báu của bác sỹ Asaba Sakitaro trong thời điểm khó khăn nhất.

2. Nhật Bản hiện là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa, giáo dục, lao động, du lịch…

Nhật Bản là nước G7 đầu tiên đón Tổng Bí thư Việt Nam đi thăm (năm 1995), nước G7 đầu tiên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam (năm 2009), nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (năm 2011), nước G7 đầu tiên mời Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng (5/2016).

3. Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao: 21/9/1973

4. Khuôn khổ quan hệ

Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973 cho đến nay, Việt Nam và

Nhật Bản đã lần lượt xác lập khuôn khổ quan hệ từ Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài năm 2002 lên Đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng ở Châu Á năm 2009 và Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở Châu Á năm 2014.

5. Các cơ quan đại diện ngoại giao tại hai nước

Tại Việt Nam: Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội, Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại Tp. Hồ Chí Minh, Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại Đà Nẵng.

Tại Nhật Bản: Đại sứ quán Việt Nam tại Tokyo, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Osaka, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Fukuoka.

6. Giao lưu, trao đổi đoàn

Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, cụ thể:

Lãnh đạo Nhật Bản thăm Việt Nam: Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam tổng cộng 12 lần; Chủ tịch Hạ viện thăm Việt Nam tháng 01/2002 và tháng 5/2017; Chủ tịch Thượng viện thăm tháng 12/2015 và tháng 9/2023.

Nhà vua Akihito và Hoàng hậu (đã thoái vị, hiện là Thượng Hoàng) thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 28/02-5/3/2017. Hoàng Thái tử Naruhito (Nhà vua hiện nay) thăm chính thức Việt Nam tháng 2/2009. Hoàng tử Akishino thăm chính thức Việt Nam tháng 6/1999 và thăm với tư cách cá nhân tháng 8/2012; sau khi trở thành Hoàng Thái tử cùng Công nương thăm chính thức Việt Nam tháng 9/2023.

Lãnh đạo Việt Nam thăm Nhật Bản: Tổng Bí thư ta thăm Nhật Bản 04 lần; Chủ tịch nước thăm Nhật Bản 03 lần; Thủ tướng Chính phủ thăm Nhật Bản 21 lần, trong đó Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm 02 lần; Chủ tịch Quốc hội thăm Nhật Bản 04 lần.

4. Các cơ chế hợp tác quan trọng

Ủy ban Hợp tác Việt - Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (từ năm 2007, đã họp 11 lần); Ủy ban hỗn hợp về thương mại, năng lượng và công nghiệp (từ 2015, đến nay đã họp 05 lần); Đối thoại Nông nghiệp cấp Bộ trưởng (từ 2014, đến nay đã họp 05 lần); Đối thoại chính sách biển Việt Nam - Nhật Bản cấp Bộ trưởng (thành lập từ tháng 12/2019, họp lần thứ nhất tháng 4/2021); Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản về ngoại giao - an ninh - quốc phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao (từ năm 2010, đã họp 07 lần); Đối thoại Chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2012, đã họp 07 lần); Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2013, đã họp 07 lần).

5. Hợp tác kinh tế

Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động thứ 2, nhà đầu tư số 3, đối tác du lịch thứ 3, thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam.

Về thương mại: Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999.

Trong 9 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản đạt trên 32,9 tỷ USD, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 17,2 tỷ USD, giảm 3,8 %, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản đạt 15,7 tỷ USD, giảm 12 % so với cùng kỳ năm 2022 (Nguồn: Bộ Công Thương).

Về đầu tư trực tiếp (FDI), FDI của Nhật Bản vào Việt Nam lũy kế tính đến 20/9/2023, đạt 71,3 tỷ USD với 5198 dự án còn hiệu lực, xếp thứ 3/143 các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Trong 9 tháng đầu năm 2023, tổng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đạt khoảng 2,9 tỷ USD, tăng 50 % so với cùng kỳ 2022. (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài)

Về viện trợ phát triển chính thức ODA: Nhật Bản là nước cung cấp vốn vay bằng đồng Yên cho Việt Nam lớn nhất, tổng giá trị vay tính đến hết năm tài khóa 2020 là 2.812,8 tỷ Yên (tương đương 27,5 tỷ USD), chiếm hơn 26% tổng vốn ký kết vay nước ngoài của Chính phủ).

6. Các lĩnh vực khác

Hợp tác nông nghiệp: Hai bên đã ký kết và triển khai Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác Nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản (9/2015, ký sửa đổi tháng 5/2018, nhất trí triển khai giai đoạn hai 2020-2024 vào tháng 12/2020).

Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam.

Hợp tác lao động: Hai bên đã ký (i) Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam; (ii) Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ thực tập sinh kỹ năng (6/2017); (iii) Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ Lao động kỹ năng đặc định (5/2019). Việt Nam là quốc gia phái cử nhiều nhất (khoảng 345.000 người) trong tổng số 15 quốc gia tham gia phái cử lao động cho Nhật Bản.

Hợp tác giáo dục: Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới chính thức đưa tiếng Nhật vào giảng dạy ở bậc trung học cơ sở từ năm 2003, tiểu học từ năm 2019. Nhật Bản là một trong những nước viện trợ lớn nhất cho ngành giáo dục - đào tạo của Việt Nam thông qua các chương trình viện trợ ODA. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực này. Số lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện đạt hơn 51.000 người. Nhật Bản đã hỗ trợ nâng cấp 04 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao; đang hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ.

­­Hợp tác địa phương hai nước: được thúc đẩy mạnh mẽ, địa phương của

Việt Nam và Nhật Bản đã ký hơn 110 văn bản hợp tác, trong đó các cặp quan hệ tiêu biểu có Tp. Hồ Chí Minh với Osaka (2007), Nagano (2017), Hà Nội với Fukuoka (2008), Tokyo (2013), Đà Nẵng với Sakai (2009), Yokohama (2013), Phú Thọ - Nara (2014), Huế - Kyoto (2014), Hưng Yên - Kanagawa (2015), Hải Phòng - Niigata (2015)...

Hợp tác phòng chống Covid-19: Nhật Bản viện trợ không hoàn lại hơn 7,4 triệu liều vắc-xin, hơn 4 tỷ yên để cung cấp trang thiết bị, hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện hệ thống y tế. Chính phủ, Quốc hội và địa phương ta hỗ trợ hơn 1,2 triệu khẩu trang cho Nhật Bản; đưa hơn 30.000 công dân Việt Nam về nước. Từ 11/10/2022, Nhật Bản đã nới lỏng quy chế cho phép khách du lịch Việt Nam nhập cảnh.

7. Tình hình cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản

Cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản đạt khoảng 520.000 người (chiếm đứng thứ 2 sau Trung Quốc). Người Việt Nam hiện sinh sống, làm việc và học tập trên khắp 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Nhật Bản, trong đó chủ yếu tập trung tại tỉnh Aichi (hơn 40.000 người) Tokyo (hơn 36.000 người) và các tỉnh Osaka (hơn 35.000 người), Saitama (gần 26.000 người), Chiba (khoảng 20.000 người), kyushu khoảng 62.000 người (Fukuoka khoảng 20.000 người).

8. Vấn đề visa cho công dân hai nước

- Từ ngày 01/01/2004, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày (từ ngày 01/7/2004, áp dụng cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản) và nâng lên 45 ngày kể từ ngày 15/8/2023.

- Ngày 8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 01/5/2005.

- Nhật Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần (từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/02/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014) cho công dân Việt Nam; đơn giản hóa thủ tục xin visa ngắn hạn dành cho người có vị trí trong xã hội (cán bộ, công chức cơ quan nhà nước, nhân viên doanh nghiệp tư nhân, nhà tri thức - văn hóa) từ ngày 01/3/2019; từ ngày 1/11/2023, cấp visa điện tử cho khách du lịch Việt Nam đi theo đoàn của các công ty du lịch được chỉ định.

https://kinhtexaydung.petrotimes.vn

Vân Anh