Đường ống Power of Siberia 2 của Nga tới Trung Quốc có thể đảo lộn thị trường LNG

08:11 | 13/10/2023

Theo dõi Kinh tế Xây Dựng trên
|
Bị cắt đứt khỏi châu Âu sau cuộc xung đột tại Ukraine, Nga đang “xoay trục sang châu Á”, và đặc biệt là Trung Quốc, để tìm kiếm thị trường thay thế cho khí đốt tự nhiên của mình, theo bài phân tích của ông Genevieve Donnellon-May trên trang The Interpreter của Viện Lowy.
Nga - Trung đạt được thỏa thuận về đường ống dẫn khí Power of Siberia 2Nga - Trung đạt được thỏa thuận về đường ống dẫn khí Power of Siberia 2
Nga gấp rút triển khai phương án bán dầu khí cho châu ÁNga gấp rút triển khai phương án bán dầu khí cho châu Á
Đường ống Power of Siberia 2 của Nga tới Trung Quốc có thể đảo lộn thị trường LNG
Ảnh minh họa

Moscow muốn có thị phần lớn hơn trong cơ cấu năng lượng trong tương lai của Trung Quốc, làm dấy lên lo ngại về việc giảm xuất khẩu cho Australia và các nước khác.

Đặc biệt, Moscow muốn xây dựng đường ống thứ hai để bơm khí đốt tự nhiên sang Trung Quốc. Đường ống Power of Siberia 1 (PS1) của Nga xuất khẩu khí đốt từ miền đông Siberia sang Trung Quốc. Đường ống Power of Siberia 2 (PS2) – giả sử cuối cùng nó được xây dựng – sẽ xuất khẩu khí đốt từ các mỏ tại bán đảo Yamal ở phía tây Siberia, cắt ngang phía đông Mông Cổ để vận chuyển 50 tỷ mét khối khí đốt hàng năm đến miền bắc Trung Quốc. Hiện nay, quốc gia này là nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và ghi nhận sản lượng tiêu thụ khí đốt ngày càng tăng.

Khối lượng xuất khẩu hàng năm dự kiến của PS2 tương đương với công suất 55 tỷ mét khối của đường ống Nord Stream 1 sang Đức đã bị hư hỏng. Việc xây dựng đường ống được đề xuất dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2024, trong đó tập đoàn khí đốt Nga Gazprom đặt mục tiêu bắt đầu cung cấp khí đốt vào năm 2030.

Lợi ích cho Trung Quốc

PS2 được đề xuất mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc. Ngoài việc hỗ trợ các mục tiêu và chính sách khí hậu quốc gia của Bắc Kinh – với nguồn cung khí đốt và chi phí là những yếu tố hạn chế trong quá khứ – đường ống này sẽ cải thiện an ninh năng lượng của Trung Quốc.

Chính phủ Trung Quốc muốn đa dạng hóa các nguồn năng lượng, một phần là để tránh bị cắt nguồn cung khi vận chuyển từ Trung Đông trong một cuộc khủng hoảng – cái gọi là “Tình thế tiến thoái lưỡng nan Malacca” – hoặc các lỗ hổng khác đối với hàng nhập khẩu của nước này.

Mặc dù Trung Quốc là nước nhập khẩu khí đốt tự nhiên lớn nhưng phần lớn năng lượng của nước này có nguồn gốc từ than đá (59%), bao gồm các nguồn trong nước, tiếp theo là dầu mỏ (20%), điện sơ cấp (thủy điện, gió, mặt trời và hạt nhân) và sinh khối (3%). Khí tự nhiên chỉ chiếm khoảng 8,4% năng lượng của đất nước và được sử dụng trong công nghiệp, dân dụng, giao thông và sản xuất điện. Từ năm 2011 đến năm 2021, nhập khẩu khí đốt tự nhiên của nước này đã tăng vọt gấp 4 lần. Và đến năm 2030, Bắc Kinh kỳ vọng khí đốt tự nhiên sẽ chiếm 15% tổng năng lượng của đất nước.

Theo Báo cáo Phát triển Khí đốt Tự nhiên của Trung Quốc, năm 2022, tổng lượng tiêu thụ khí đốt tự nhiên của nước này là 364,6 tỷ mét khối, trong đó khoảng 41% được nhập khẩu, bao gồm từ các quốc gia như Turkmenistan, Australia, Nga, Qatar và Malaysia.

Một số lo ngại

Một số nhà phân tích lưu ý rằng đường ống PS2 được đề xuất phù hợp với bối cảnh rộng hơn là tăng cường hợp tác năng lượng và thương mại song phương Trung-Nga, bao gồm phát triển điện hạt nhân, các thỏa thuận khí đốt tự nhiên, than đá và các dự án chung. Tuy nhiên, việc triển khai và vận hành dự án sẽ không hề dễ dàng. Nga vẫn chưa thể có cam kết không thể thay đổi từ Trung Quốc và Bắc Kinh có thể để mắt đến phản ứng của phương Tây.

Ngoài ra còn có một số điều không chắc chắn về nhu cầu khí đốt trong tương lai của Trung Quốc cũng như các mục tiêu khai tahcs và tự cung cấp trong nước của Bắc Kinh. Và Trung Quốc khá sẵn lòng trì hoãn các cuộc đàm phán khi họ thấy có lợi thế đàm phán khi làm như vậy.

Ngay cả khi được chấp thuận, Trung Quốc sẽ đưa ra một cuộc mặc cả khó khăn. Đường ống có thể mất nhiều năm để xây dựng và các chi tiết quan trọng (chẳng hạn như giá khí đốt, điều khoản giao hàng và tài chính) phải được xác định. Ngay cả khi đó, công suất xuất khẩu tối đa của các đường ống xuyên biên giới vẫn có thể ít hơn nhiều so với những đường ống nối Nga với thị trường châu Âu.

Do lo ngại về quỹ đạo dài hạn của chính sách đối ngoại của Nga, Bắc Kinh khó có thể cấp vốn ngay cho dự án. Và Trung Quốc sẽ vẫn cảnh giác với những nỗ lực của Moscow nhằm vũ khí hóa nguồn cung cấp năng lượng chống lại Bắc Kinh.

Phương Tây ảnh hưởng

Dự án được đề xuất có một số ý nghĩa đối với phương Tây, trong đó có Australia. Như đã lưu ý ở trên, sự quan tâm của Nga đối với thỏa thuận này phản ánh nhu cầu chuyển trục sang châu Á của nước này. Nếu đường ống được tiến hành, nó sẽ củng cố đáng kể mối quan hệ đối tác “không giới hạn” giữa Trung Quốc và Nga. Hơn nữa, nó làm giảm sự phụ thuộc của cả hai nước vào phương Tây - một ví dụ về việc Trung Quốc và Nga đang thực hiện việc “giảm thiểu rủi ro” của riêng họ.

Điều này có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng của Australia? Về lý thuyết thì có. Trung Quốc đóng vai trò trung tâm trong thị trường khí đốt khu vực và toàn cầu. Năm 2021, nước này nhập khẩu nhiều LNG hơn phần còn lại của thế giới, chiếm gần 60% mức tăng trưởng nhu cầu LNG toàn cầu. Hơn 90% xuất khẩu LNG của Australia là sang Trung Quốc, tiếp theo là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Australia cũng là nhà cung cấp LNG lớn nhất cho các quốc gia này, chiếm 43% lượng nhập khẩu của Nhật Bản, 37% của Đài Loan, 35% của Trung Quốc và 25% của Hàn Quốc.

Tuy nhiên, nhiều yếu tố sẽ ảnh hưởng đến câu chuyện nhu cầu cuối cùng. Chúng bao gồm tốc độ Trung Quốc chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch và vai trò của LNG như một nguồn năng lượng chuyển tiếp trong giai đoạn đó.

Trong mọi kịch bản, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu LNG của Australia là một cách tiếp cận hợp lý. Nhu cầu LNG từ Australia của Trung Quốc giảm đi có thể đồng nghĩa với việc có nhiều nguồn cung hơn cho các quốc gia khác. Tuy nhiên, nó cũng có thể khiến Canberra phải chật vật tìm kiếm thị trường thay thế. Như những năm vừa qua đã cho thấy, việc thực hiện chiến lược đa dạng hóa xuất khẩu trong thời gian ngắn kèm theo nhiều thách thức.

Bài viết thể hiện quan điểm của ông Genevieve Donnellon-May, cố vấn chiến lược địa chính trị và toàn cầu về quản trị tài nguyên và môi trường khu vực ở châu Á, nhà phân tích châu Á-Thái Bình Dương.

Đỗ Khánh

The Interpreter