Bất động sản thu hút nhà đầu tư

05:57 | 02/01/2022

1,097 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mặc dù trải qua 2 năm dịch Covid-19 diễn biến khôn lường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, nhưng giá bất động sản (BĐS) nhiều phân khúc trên thị trường cuối năm 2021 vẫn tiếp tục tăng, cho thấy BĐS vẫn là kênh đầu tư an toàn, thu hút nhiều nhà đầu tư.
Bất động sản thu hút nhà đầu tư

Theo bà Dương Thùy Dung, Giám đốc cấp cao Công ty Đầu tư và dịch vụ BĐS thương mại Mỹ tại Việt Nam, thị trường nhà ở cuối năm 2021 chứng kiến nguồn cung giảm do tác động của các biện pháp giãn cách xã hội, nguồn cung mới chỉ ghi nhận sản phẩm thuộc phân khúc cao cấp, căn hộ bình dân dần biến mất khỏi thị trường... Nguồn cung hạn chế khiến tỷ lệ hấp thụ của thị trường nhà ở đạt mức cao, đặc biệt là tại TP Hồ Chí Minh.

Còn tại Hà Nội, tỷ lệ bán sản phẩm của các dự án mới ra mắt cuối năm 2021 đang tiếp tục đà tăng, có thể kéo dài đến quý I/2022, giá dự kiến tiếp tục tăng do giá đất tăng, chi phí xây dựng leo thang, cầu ổn định và nguồn cung tạm thời còn hạn chế.

Nhìn chung, giá bán căn hộ sơ cấp tại Hà Nội tăng 16%, giá bán căn hộ sơ cấp tại TP Hồ Chí Minh tăng 17%.

Trên thị trường nhà phố, biệt thự tại Hà Nội, nguồn cung mới cuối năm 2021 chỉ có khoảng 440 căn (cơ cấu biệt thự 1%, nhà liền kề 58%, nhà phố thương mại 41%). Nguồn cung mới phân khúc này tại TP Hồ Chí Minh chỉ khoảng chục căn, 100% là các căn liền kề.

Nhu cầu nhà phố, biệt thự vẫn cao khiến giá tăng mạnh ở các đô thị lớn. Tại Hà Nội, giá bán biệt thự đã tăng 13%, giá nhà phố tăng 4%, giá nhà phố thương mại tăng 3%; trong khi ở TP Hồ Chí Minh, giá biệt thự tăng 3%, giá nhà phố tăng 17%, giá nhà phố thương mại tăng 6%.

Riêng giá bán condotel Phú Quốc hiện tới gần 4.000 USD/m2. Thị trường BĐS nghỉ dưỡng là phân khúc chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19 trong 2 năm qua, nhưng thị trường vẫn tiếp nhận nhiều thông tin tích cực về phân khúc này. Đáng chú ý, tỉnh Khánh Hòa dẫn đầu cả nước về nguồn cung condotel, với gần 14.000 căn tung ra thị trường. Từ đầu năm đến nay, giá bán sơ cấp condotel ở Khánh Hòa, Đà Nẵng gần 2.500USD/m2, Bà Rịa - Vũng Tàu gần 2.000 USD/m2... Về nguồn cung biệt thự nghỉ dưỡng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận và Phú Quốc là những thị trường dẫn đầu về số lượng biệt thự nghỉ dưỡng hiện nay. Giá bán biệt thự nghỉ dưỡng tăng ngay cả trong thời kỳ bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, đặc biệt tại các thị trường cấp 2 như Phú Yên và Bà Rịa - Vũng Tàu...

Bất động sản thu hút nhà đầu tư
Các chính sách bán hàng linh hoạt được các doanh nghiệp BĐS tung ra nhằm thu hút người mua

Tại hội nghị toàn cảnh thị trường BĐS năm 2021 mới đây, ông Cấn Văn Lực - chuyên gia kinh tế trưởng BIDV - cho biết, có rất nhiều yếu tố hứa hẹn sự phục hồi nhanh và tăng trưởng của thị trường BĐS trong năm 2022. Nền kinh tế có thể phục hồi nhanh, nếu Việt Nam thực hiện tốt chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 và năm 2023. Thêm vào đó, đầu tư cơ sở hạ tầng được coi là 1 trong 3 đột phá chiến lược, cùng với hành lang pháp lý về BĐS đã và đang được cải thiện (Nghị định

148/CP/2020 về đất đai, Nghị định

69/CP/2021 về cải tạo chung cư cũ, Luật Đất đai dự kiến sửa đổi năm 2022), chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, thị hiếu khách hàng thay đổi sau đại dịch... là những yếu tố tích cực thúc đẩy thị trường BĐS khởi sắc trong tương lai gần.

Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư vào BĐS vẫn dồi dào. Quý IV/2021, vốn tín dụng BĐS tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm trước; tổng dư nợ tín dụng BĐS khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 19% tổng dư nợ nền kinh tế; trong đó, theo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Xây dựng, cho vay mua nhà ở chiếm 64%, còn lại là tín dụng kinh doanh BĐS chiếm khoảng 36%.

Năm 2021, số doanh nghiệp kinh doanh BĐS thành lập mới là 6.700 doanh nghiệp, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, vốn đăng ký 423.000 tỉ đồng, tạo ra 43.400 việc làm. Thị trường ghi nhận 1.250 doanh nghiệp hoạt động trở lại và 1.580 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động.

Về nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đến tháng 12-2021, tổng vốn đăng ký mới vào BĐS đạt gần 2 tỉ USD (chiếm khoảng 11% tổng vốn FDI), đứng thứ 3 trong các lĩnh vực thu hút FDI. Riêng vốn góp, mua cổ phần đạt 983 triệu USD (chiếm 22,4%).

Về trái phiếu doanh nghiệp, tính đến tháng 12-2021, toàn thị trường phát hành 436 nghìn tỉ đồng trái phiếu, trong đó, doanh nghiệp BĐS xếp thứ 1 (chiếm 45%), thứ 2 là nhóm ngân hàng (chiếm 30%).

Những yếu tố đó góp phần khiến giá BĐS hầu như không giảm, riêng BĐS nhà ở vẫn tăng 5-9% tùy địa phương. Giá thuê BĐS khu công nghiệp cũng tăng 3-18% tùy địa phương.

Thực tế, sự thay đổi trong cách thức tìm kiếm và “khẩu vị” người mua nhà đã làm thay đổi xu hướng phát triển sản phẩm BĐS và hình thức kinh doanh của nhiều chủ đầu tư. Bên cạnh vị trí và chất lượng xây dựng, nhiều doanh nghiệp dần mạnh tay hơn trong đầu tư phát triển các yếu tố tiện ích, môi trường và không gian sống để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm BĐS tập trung hướng tới giá trị thực.

Nguồn vốn đầu tư vào BĐS vẫn dồi dào. Quý IV/2021, vốn tín dụng BĐS tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm trước; tổng dư nợ tín dụng BĐS khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 19% tổng dư nợ nền kinh tế; trong đó, theo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Xây dựng, cho vay mua nhà ở chiếm 64%, tín dụng kinh doanh BĐS chiếm 36%.

Vân Quỳnh

Thị trường bất động sản “nóng” trở lại, nhiều nhóm ngành hưởng lợiThị trường bất động sản “nóng” trở lại, nhiều nhóm ngành hưởng lợi
Mô hình đô thị nào đang dắt dắt xu hướng thị trường bất động sản Việt Nam?Mô hình đô thị nào đang dắt dắt xu hướng thị trường bất động sản Việt Nam?
"Cây đinh ba" áp lực và nguy cơ vào "vết xe đổ" đè nặng kinh tế Trung Quốc
Liệu có xảy ra sốt đất trong năm 2022?Liệu có xảy ra sốt đất trong năm 2022?
Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong đấu giá quyền sử dụng đấtXử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong đấu giá quyền sử dụng đất

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 85,200 ▼100K 86,700 ▼100K
AVPL/SJC HCM 85,200 ▼100K 86,700 ▼100K
AVPL/SJC ĐN 85,200 ▼100K 86,700 ▼100K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,300 ▼100K 74,200 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 73,200 ▼100K 74,100 ▼50K
AVPL/SJC Cần Thơ 85,200 ▼100K 86,700 ▼100K
Cập nhật: 08/05/2024 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.300 ▼200K 75.100 ▼200K
TPHCM - SJC 85.100 87.400
Hà Nội - PNJ 73.300 ▼200K 75.100 ▼200K
Hà Nội - SJC 85.100 87.400
Đà Nẵng - PNJ 73.300 ▼200K 75.100 ▼200K
Đà Nẵng - SJC 85.100 87.400
Miền Tây - PNJ 73.300 ▼200K 75.100 ▼200K
Miền Tây - SJC 85.300 ▼300K 87.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.300 ▼200K 75.100 ▼200K
Giá vàng nữ trang - SJC 85.100 87.400
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - SJC 85.100 87.400
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.200 ▼200K 74.000 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.250 ▼150K 55.650 ▼150K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.040 ▼120K 43.440 ▼120K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.530 ▼90K 30.930 ▼90K
Cập nhật: 08/05/2024 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,315 ▼10K 7,500 ▼10K
Trang sức 99.9 7,305 ▼10K 7,490 ▼10K
NL 99.99 7,310 ▼10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,290 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,380 ▼10K 7,530 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,380 ▼10K 7,530 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,380 ▼10K 7,530 ▼10K
Miếng SJC Thái Bình 8,550 8,750 ▲10K
Miếng SJC Nghệ An 8,550 8,750 ▲10K
Miếng SJC Hà Nội 8,550 8,750 ▲10K
Cập nhật: 08/05/2024 18:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 85,200 ▼100K 87,500
SJC 5c 85,200 ▼100K 87,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 85,200 ▼100K 87,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,300 ▼200K 75,000 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,300 ▼200K 75,100 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 73,200 ▼200K 74,200 ▼200K
Nữ Trang 99% 71,465 ▼198K 73,465 ▼198K
Nữ Trang 68% 48,111 ▼136K 50,611 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 28,594 ▼84K 31,094 ▼84K
Cập nhật: 08/05/2024 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,314.74 16,479.54 17,008.22
CAD 18,025.83 18,207.91 18,792.04
CHF 27,263.08 27,538.46 28,421.92
CNY 3,446.53 3,481.35 3,593.57
DKK - 3,594.11 3,731.74
EUR 26,605.51 26,874.25 28,064.32
GBP 30,934.16 31,246.63 32,249.04
HKD 3,164.90 3,196.87 3,299.42
INR - 303.41 315.54
JPY 159.17 160.78 168.47
KRW 16.13 17.93 19.55
KWD - 82,479.13 85,776.52
MYR - 5,301.42 5,417.04
NOK - 2,279.96 2,376.76
RUB - 264.33 292.61
SAR - 6,753.77 7,023.78
SEK - 2,290.90 2,388.16
SGD 18,280.07 18,464.72 19,057.09
THB 607.26 674.73 700.57
USD 25,131.00 25,161.00 25,461.00
Cập nhật: 08/05/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,382 16,402 17,002
CAD 18,182 18,192 18,892
CHF 27,473 27,493 28,443
CNY - 3,449 3,589
DKK - 3,575 3,745
EUR #26,474 26,684 27,974
GBP 31,193 31,203 32,373
HKD 3,123 3,133 3,328
JPY 159.44 159.59 169.14
KRW 16.47 16.67 20.47
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,248 2,368
NZD 14,967 14,977 15,557
SEK - 2,260 2,395
SGD 18,193 18,203 19,003
THB 634.91 674.91 702.91
USD #25,145 25,145 25,461
Cập nhật: 08/05/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,155.00 25,161.00 25,461.00
EUR 26,745.00 26,852.00 28,057.00
GBP 31,052.00 31,239.00 32,222.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,300.00
CHF 27,405.00 27,515.00 28,381.00
JPY 159.98 160.62 168.02
AUD 16,385.00 16,451.00 16,959.00
SGD 18,381.00 18,455.00 19,010.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18,134.00 18,207.00 18,750.00
NZD 14,961.00 15,469.00
KRW 17.80 19.47
Cập nhật: 08/05/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25200 25200 25461
AUD 16487 16537 17052
CAD 18282 18332 18788
CHF 27744 27794 28357
CNY 0 3483.8 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27069 27119 27830
GBP 31474 31524 32176
HKD 0 3250 0
JPY 161.59 162.09 166.62
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0367 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15007 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18544 18594 19155
THB 0 646.9 0
TWD 0 780 0
XAU 8550000 8550000 8740000
XBJ 6800000 6800000 7320000
Cập nhật: 08/05/2024 18:00