Bài toán khó của châu Âu khi các nước đẩy mạnh khai thác khí đốt

08:14 | 13/08/2022

1,134 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhiều nước ở châu Âu đang đẩy nhanh khai thác khí đốt để đề phòng kịch bản xấu, khi xung đột Nga - Ukraine vẫn đang nóng. Tuy nhiên, nhiều người tỏ ra lo ngại về tình hình này.
Bài toán khó của châu Âu khi các nước đẩy mạnh khai thác khí đốt  - 1
Công việc xây dựng trên đảo ở Brunsbuettel, miền bắc nước Đức, vào đầu tháng 3. Đây có thể là địa điểm cho một nhà ga khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) mới (Ảnh: AP).

Hòn đảo Schiermonnikoog dài 16km được biết đến là một trong những nơi đẹp nhất ở Hà Lan, tự hào có bãi biển rộng nhất châu Âu, cùng 300 loài chim khác nhau và hoạt động buôn bán, du lịch nhộn nhịp.

Nhưng sau khi chính phủ Hà Lan và Đức phê duyệt phát triển một mỏ khí đốt mới chỉ cách bờ biển Schiermonnikoog khoảng 20km, thị trưởng hòn đảo lo lắng về tương lai của nơi này.

"Chúng tôi rất lo ngại về việc các dàn khoan khí đốt có thể hủy hoại cảnh quan tự nhiên khu vực này. Chúng tôi nghĩ không cần đầu tư vào khí đốt, nên tập trung nhiều hơn nữa vào năng lượng tái tạo", Thị trưởng Schiermonnikoog, bà Inekevan Gent, nói.

Dự án khai thác khí đốt ngoài khơi Schiermonnikoog, trải dài từ bờ biển Đức và Hà Lan vào Biển Bắc, chỉ là một trong hàng loạt dự án đã được bật đèn xanh hoặc đang được xem xét trên khắp châu Âu, sau khi Nga mở chiến dịch quân sự tại Ukraine.

Châu Âu đang nỗ lực để đảm bảo nguồn cung cấp khí đốt nếu Moscow cắt nguồn cung. Hồi tháng trước, các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) đã đặt ra mục tiêu tự nguyện giảm sử dụng khí đốt 15% cho đến tháng 3/2023 để tránh khủng hoảng khi thời tiết thay đổi.

Nguồn cung năng lượng bị thắt chặt có thể đẩy giá cao hơn nữa, gây ra tình trạng mất điện và khiến các hộ gia đình dễ bị tổn thương không thể thanh toán hóa đơn của họ.

Tuy vậy, các nhà khoa học, nhà hoạt động và người dân địa phương ở những nơi như Schiermonnikoog tỏ ra hoài nghi rằng chiến sự ở Ukraine chỉ là bình phong cho các dự án như vậy.

Theo họ, các dự án có lẽ không kịp phát huy hiệu quả ngay mùa đông tới, trong khi cuối cùng chúng có thể khiến tình trạng ấm lên toàn cầu càng trở nên nghiêm trọng hơn.

Các dàn khoan ngoài khơi Schiermonnikoog dự kiến sẽ bắt đầu cung cấp khí đốt cho các hộ gia đình ở Hà Lan và Đức trước năm 2024. Sau khi được cấp phép, nó có thể hoạt động trong nhiều thập niên, với giấy phép có hiệu lực đến năm 2042.

Một lãnh đạo của Viện Nghiên cứu Biển Hoàng gia Hà Lan, người phản đối dự án, cho biết: "Về nguyên tắc, chúng ta cần phải loại bỏ tất cả các nhiên liệu hóa thạch và cần loại bỏ chúng nhanh chóng. Đó không phải là giải pháp tức thì cho bất cứ điều gì liên quan đến cuộc khủng hoảng khí đốt của Nga".

Công ty ONE-Dyas vận hành dự án ở Schiermonnikoog cho biết đã thường xuyên liên hệ với các bên liên quan ở địa phương kể từ năm 2018 và tiến hành đánh giá tác động môi trường. Theo ONE-Dyas, khí đốt sản xuất trong nước bảo đảm tạo ra lượng phát thải khí nhà kính thấp hơn so với khí đốt nhập khẩu.

Tình hình thay đổi tại châu Âu

Châu Âu chật vật tìm kiếm nguồn cung khí đốt trong bối cảnh Nga cho thấy sẵn sàng trừng phạt EU vì những tranh cãi quanh cuộc xung đột Ukraine. Gazprom của Nga mới đây đã cắt giảm nguồn cung khí đốt tới châu Âu thông qua đường ống Nord Stream 1.

Giám đốc Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), ông Fatih Birol, cho rằng tình hình ở châu Âu hiện được miêu tả là "rất nguy hiểm" và khu vực này phải chuẩn bị cho một mùa đông "dài và khó khăn".

Và thậm chí ngay cả nếu các nước EU xoay xở làm đầy 90% các bể dự trữ khí đốt, khu vực vẫn có khả năng đối mặt nguy cơ gián đoạn nguồn cung vào đầu năm 2023 nếu Nga quyết định cắt đứt cung cấp khí đốt từ tháng 10, IEA dự báo.

Rủi ro đã thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm các nguồn nhiên liệu thay thế và tích trữ những gì họ có thể. Tình thế cũng khiến các chính trị gia ủng hộ mở rộng hoạt động của ngành khai thác khí đốt, điều chỉ 12 tháng trước là "không thể tưởng tượng" bởi lo ngại về biến đổi khí hậu.

Từ hồi tháng 2, nhiều nước đã dỡ bỏ giới hạn khai thác khí đốt và cấp phép cho các mỏ khí đốt mới, thường lấy lý do là cần phải thực dụng trong thời kỳ căng thẳng cao độ.

Đan Mạch, vào năm 2020 đã công bố kế hoạch chấm dứt khai thác nhiên liệu hóa thạch, đang dự tính đẩy mạnh khai thác từ các mỏ đã được cấp phép ở Biển Bắc. Hungary cho biết sẽ tăng sản lượng khai thác khí đốt trong nước từ 1,5 tỷ 3 lên 2 tỷ m3.

Tập đoàn Shell đang tiến hành phát triển khí đốt tự nhiên mới ở Biển Bắc sau khi chính phủ Anh cho phép vào tháng 6, đảo ngược quyết định chặn dự án trước đó vì lý do môi trường.

"Chúng tôi đang tăng tốc với năng lượng tái tạo và hạt nhân, nhưng cũng phải thực tế về nhu cầu năng lượng ngay lúc này", Kwasi Kwarteng, Bộ trưởng Năng lượng và Kinh doanh Anh, viết trên Twitter.

Trong khi đó, chính phủ các nước châu Âu cũng chạy đua mở rộng năng lực dự trữ khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), xem đây là nguồn năng lượng thay thế khí đốt Nga rất hấp dẫn vì nó có thể được vận chuyển bằng tàu biển từ các nước đồng minh của châu Âu như Mỹ, Canada.

Tổ chức tư vấn chính sách Global Energy Monitor của Mỹ cho biết, có ít nhất 25 dự án xây dựng hoặc mở rộng kho chứa LNG ở châu Âu và Anh mới được đề xuất kể từ khi xung đột bùng nổ ở Ukraine.

"Mọi người chỉ đang thấy sự thay đổi 180 độ của các nước", một chuyên gia năng lượng tại công ty Sanford Bernstein nói.

Cần tầm nhìn dài hạn, chiến lược

Mặc dù gấp gáp, một số dự án khí đốt có thể cải thiện nguồn cung năng lượng cho châu Âu ngay mùa đông này nếu Nga định giảm hoặc cắt dòng chảy khí đốt tới phía Tây.

Tập đoàn Zenith Energy của Canada tháng trước cho biết vừa mở lại giếng khí đốt ở Đông Bắc Italy, vốn có thể sản xuất 1.300 m3 khí đốt mỗi ngày, dự kiến sản xuất sẽ bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 12.

Một đại diện của tập đoàn trên cho biết trong một tuyên bố, quyết định trên được đưa ra "trong bối cảnh nhu cầu ngày càng tăng đối với an ninh năng lượng nội địa của châu Âu và môi trường giá cả rất đáng khích lệ".

Trong khi đó, một kho lưu trữ nổi và đồng thời có chức năng hóa lỏng LNG do tập đoàn Snam của Italy vận hành sẽ đi vào hoạt động ngoài khơi Ravenna, Italy từ năm 2024. Một số dự án khác thì vẫn chưa khởi động để đi vào khai thác. Shell ước tính mỏ khí đốt Jackdaw ở Biển Bắc sẽ đi vào hoạt động trong vài năm nữa.

Một nhà vận động khí đốt của Global Witness có trụ sở tại Brussels, lo ngại các dự án sẽ không cần thiết. "Ngay trước khi bùng nổ xung đột ở Ukraine, người ta đã có cảm giác rằng châu Âu có đủ cơ sở hạ tầng khí đốt, ngay cả trong trường hợp có sự gián đoạn đáng kể. Bây giờ nó thực sự là một bức tranh khác", người này nói.

Thêm vào đó, với thời hạn, năng lượng tái tạo có thể lấp đầy khoảng trống thay vì khí tự nhiên, có lượng khí thải carbon thấp hơn dầu và than nhưng vẫn gây ra hiệu ứng nhà kính và sự nóng lên toàn cầu.

Rủi ro cho môi trường

Đó là điều mà Thị trưởng Inekevan Gent của Schiermonnikoog đặt ra hiện nay.

Theo bà Gent, việc mở rộng khai thác khí đốt, dù ít ô nhiễm hơn dầu mỏ và than đá, vẫn có hại cho môi trường và góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ấm lên toàn cầu. Bà lo lắng về việc bảo vệ một di sản thế giới nhạy cảm được UNESCO công nhận.

"Mối quan tâm chính của tôi là sự sụt lún đất, có nghĩa là chúng tôi cũng gặp vấn đề với việc sống trên mặt đất", Thị trưởng Gent nói.

Cách Schiermonnikoog không xa, mỏ khí Groningen trên bờ của liên doanh giữa Shell (RDSA) và Exxon (XOM) từng là một trong những nguồn cung cấp khí đốt lớn nhất châu Âu đang dần bị hủy hoại vì động đất. Một báo cáo vào năm 2016 cho thấy, đã có 271 cơn địa chấn có cường độ 1,5 độ Richter hoặc lớn hơn.

Vấn đề sụt lụt ít nghiêm trọng hơn với dự án ngoài khơi Schiermonnikoog nhưng tác động sinh thái cần chú trọng kỹ, theo ông Han Dolman, giám đốc Viện nghiên cứu biển Hà Lan. Ông Dolman cùng 432 người khác đã ký một lá thư phản đối mỏ khí đốt này.

"Nó nằm trong khu vực bảo tồn thiên nhiên, cần cẩn trọng khi có bất cứ hoạt động nào, chứ chưa nói tới khởi công một dàn khoan khí đốt", ông Dolman nói.

Theo Dân trí

Ukraine nối lại việc cung cấp dầu của Nga sang Hungary và SlovakiaUkraine nối lại việc cung cấp dầu của Nga sang Hungary và Slovakia
Belarus lên tiếng về loạt vụ nổ lớn ở căn cứ không quân sát UkraineBelarus lên tiếng về loạt vụ nổ lớn ở căn cứ không quân sát Ukraine
Ukraine ban bố lệnh giới nghiêm đặc biệt ở DonbassUkraine ban bố lệnh giới nghiêm đặc biệt ở Donbass
Hai nước EU trả tiền cho Ukraine mở lại đường ống đưa dầu Nga sang châu ÂuHai nước EU trả tiền cho Ukraine mở lại đường ống đưa dầu Nga sang châu Âu
Ukraine ngừng cung cấp dầu cho châu ÂuUkraine ngừng cung cấp dầu cho châu Âu
Dầu Nga ngừng chảy tới Trung Âu: Cuộc chiến năng lượng hay vấn đề kỹ thuật?Dầu Nga ngừng chảy tới Trung Âu: Cuộc chiến năng lượng hay vấn đề kỹ thuật?
Ukraine lên tiếng về nghi vấn tấn công căn cứ Nga ở CrimeaUkraine lên tiếng về nghi vấn tấn công căn cứ Nga ở Crimea

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,200 ▲950K 75,150 ▲950K
Nguyên liệu 999 - HN 74,100 ▲950K 75,050 ▲950K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
TPHCM - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Hà Nội - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Hà Nội - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Miền Tây - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲500K 74.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲370K 55.800 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲290K 43.560 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲210K 31.020 ▲210K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,365 ▲60K 7,570 ▲60K
Trang sức 99.9 7,355 ▲60K 7,560 ▲60K
NL 99.99 7,360 ▲60K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,340 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,700 ▲600K 75,400 ▲600K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,700 ▲600K 75,500 ▲600K
Nữ Trang 99.99% 73,600 ▲700K 74,600 ▲600K
Nữ Trang 99% 71,861 ▲594K 73,861 ▲594K
Nữ Trang 68% 48,383 ▲408K 50,883 ▲408K
Nữ Trang 41.7% 28,761 ▲250K 31,261 ▲250K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,326 16,426 16,876
CAD 18,311 18,411 18,961
CHF 27,324 27,429 28,229
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,595 3,725
EUR #26,718 26,753 28,013
GBP 31,293 31,343 32,303
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 158.32 158.32 166.27
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,271 2,351
NZD 14,848 14,898 15,415
SEK - 2,281 2,391
SGD 18,174 18,274 19,004
THB 632.55 676.89 700.55
USD #25,125 25,125 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25130 25130 25450
AUD 16368 16418 16921
CAD 18357 18407 18862
CHF 27515 27565 28127
CNY 0 3460.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26927 26977 27679
GBP 31415 31465 32130
HKD 0 3140 0
JPY 159.62 160.12 164.63
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0321 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14889 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18414 18464 19017
THB 0 644.8 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8430000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 16:00